Trong hai nhóm tục ngữ sau, bạn thích các câu tục ngữ trong nhóm nào hơn?
Nhóm 1:
Có nửa ổ bánh mì còn đỡ hơn là không có ổ bánh mì nào.
Một người mà đòi chống lại mọi người thì chỉ có thất bại.
“Ví dụ như” không phải là bằng chứng.
Nhóm 2:
Quá khiêm tốn là biểu hiện một nửa của sự tự cao.
Không cần coi chừng kẻ thù mà chỉ cần cẩn thận với những người bạn.
Một người đàn ông có thể mạnh hơn sắt thép nhưng lại mềm yếu hơn một con ruồi.
Nếu bạn thích nhóm tục ngữ thứ nhất, bạn có thể tự hào mình có lối tư
duy của phương Tây, chính xác hơn là tư duy giống sinh viên Mỹ. Nếu bạn
thích nhóm tục ngữ thứ hai, bạn có thể tự hào rằng tư duy của bạn thấm
nhuần được tư tưởng Á Đông. Đó là kết quả thu được từ một cuộc thử
nhiệm của giáo sư Tâm lý Xã hội Mỹ Nisbet. Trong thử nghiệm của mình,
ông đưa hai nhóm câu tục ngữ trên cho sinh viên của trường ĐH
và sinh viên trường ĐH Bắc Kinh và yêu cầu họ cho biết nhóm câu tục ngữ
nào khiến họ cảm thấy thích thú. Sinh viên Mỹ cho biết họ thích nhóm 1,
còn sinh viên Trung Quốc thì thích nhóm 2.
Vậy giữa hai nhóm câu tục ngữ này có sự khác biệt nào? Rõ ràng, những ý
tưởng được thể hiện trong các câu tục ngữ nhóm 2 dung hàm 2 ý
tưởng/khái niệm hoàn toàn mâu thuẫn, đối chọi nhau. Ví dụ trong câu
đầu, Quá khiêm tốn là biểu hiện một nửa của sự tự cao, theo lẽ thường
tình, khiêm tốn là trái ngược với sự kiêu ngạo, người ta không thể vừa
khiêm tốn, vừa kiêu ngạo. Hoặc trong câu 2, theo lôgic thì chúng ta chỉ
đề phòng kẻ thù chứ ai lại đi đề phòng bạn bè? Nói một cách ngắn gọn,
nhóm thứ 1 biểu hiện ý tưởng thuần túy lôgic, nhóm thứ 2 thì chứa đựng
sự mâu thuẫn về lôgic.
Trên thực tế, giáo sư Nisbet nhận thấy rằng chúng ta thường gặp những ý
tưởng dạng nhóm 2 trong kho tàng tục ngữ của Trung Quốc nhiều hơn là
kho tục ngữ Mỹ. Để tránh trường hợp sinh viên Trung Quốc chọn nhóm 2 là
vì đã quen thuộc với chúng, ông chọn trong bộ sưu tập các câu tục ngữ
Do Thái một số câu và chia chúng làm 2 nhóm giống như trên. Kết quả vẫn
không thay đổi, sinh viên Trung Quốc thích các câu tục ngữ có hàm chứa
yếu tố mâu thẫn về ý tưởng nhiều hơn sinh viên Mỹ.
Theo giáo sư Nisbet kết quả trên phần nào cho thấy có sự khác biệt về
cách tư duy giữa Đông và Tây. Có thể mô tả sự khác biệt này như sau: tư
duy của phương Tây tuân thủ các nguyên tắc của lôgic. Nếu như ta đã
phân loại thành 2 nhóm A và B, thì một vật không thể vừa thuộc về nhóm
A và vừa thuộc về nhóm B. Như vậy là phản lôgic và không có ích lợi cho
tư duy khoa học. Trong khi đó truyền thống tư duy của phương Đông vẫn ý
thức được rằng bản chất của thực tại là luôn thay đổi. Thế giới mà ta
đang sống không tĩnh mà là động, và trạng thái của một sự vật, hiện
tượng không tồn tại bất biến mà luôn trong quá trình chuyển hóa thành
một trạng thái khác. Ví dụ lá cây vào mùa xuân là màu xanh, sang mùa
thu thì chuyển thành màu vàng và vào mùa đông thì rơi rụng xuống đất
không còn trên cành nữa. Chính vì thực tại là luôn biến động và thay
đổi nên người phương Đông cho rằng các khái niệm (do con người đặt ra
để phản ảnh thế giới thực tế) không mang tính cố định và khách quan mà
là chủ quan và có thể linh động thay đổi.
Hơn nữa, theo triết lý phương Đông vì thực tại luôn thay đổi, nên các
cặp phạm trù đối ngược, nghịch lý, bất thường luôn được tạo ra trong
cuộc sống. Cũ và mới, tốt và xấu, mạnh và yếu tồn tại trong mọi thứ.
Đơn cử một ví dụ dễ hiểu sau: nếu tôi đứng dạy trong một lớp học toàn
học trò giỏi, ngoan, dễ thương, ác ý trong thân tâm tôi sẽ bị kìm chế,
tạm thời biến mất, thiện ý sẽ được vun đắp và nảy sinh bên trong tôi;
ngược lại, nếu tôi gặp phải những học trò lười, đạo đức tính cách có
vấn đề, lúc đó hoàn cảnh sẽ dễ dàng làm nảy sinh tà ý trong thâm tâm
tôi (những cảm xúc như ghét chúng nó, muốn trừng phạt chúng nó hay “đì
chúng nó sói trán” v.v.). Tóm lại, cái tôi của tôi theo Đông phương
không tồn tại bất biến mà luôn thay đổi, tùy thuộc vào hoàn cảnh và các
yếu tố khác tác động (chẳng hạn, khi vui thì tôi sẵn sàng làm người
tốt, khi buồn thì dễ trở thành người xấu), và cái thiện lẫn cái ác luôn
tồn tại sẵn có bên trong tôi chỉ cần gặp phải đúng môi trường chúng sẽ
được tạo sinh. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên nếu đạo Lão quan niệm
rằng hai mặt đối lập của một sự vật luôn tồn tại chung với nhau, đối
chọi nhau nhưng có liên quan với nhau và kiềm chế lẫn nhau.
Quá coi trọng yếu tố logic, phương Tây có khuynh hướng xem nhẹ yếu tố
môi trường, vì theo tư duy của phương Tây, một vật thể A dù trong bất
cứ môi trường nào cũng vẫn là A, nó không thể vừa là A vừa là đối-A .
Ví dụ một con mèo ở Mỹ thì qua Việt
cũng vẫn là mèo, mèo không thể tự nhiên biến thành chó được. Trong khi
đó phương Đông lại cho rằng cuộc sống luôn thay đổi, luôn chuyển hóa từ
trạng thái này sang trạng thái khác và vì vậy xem trọng mối quan hệ
giữa một vật thể và tổng thể môi trường xung quanh. Theo đó một vật thể
trong môi trường này có những đặc tính này nhưng khi sang một môi
trường khác chúng sẽ chuyển thành những đặc tính khác. Ví dụ: một người
đàn ông với vai trò là con trong một gia đình sẽ thể hiện những đặc
tính khác với khi anh ta ra ngoài xã hội và đảm nhận vai trò doanh nhân
trên thương trường. Một ví dụ khác minh họa cho quan niệm một vật thể
có thể vừa là A và đối-A: tôi đang ngồi đây và đang sống. Tôi biết mình
đang còn sống vì vào lúc 8:20:01 ngày 9/8/2006 tôi vẫn còn đang thở ra,
hít vào, và vào lúc 8:20:02 ngày 9/8/2006 tôi vẫn còn hít vào, thở ra.
Nhưng nếu xét từ một góc độ khác, cứ sau mỗi giây phút hít vào thở ra
là các tế bào trong cơ thể tôi đang già đi. Giả sử tôi có thể sống đến
80 tuổi thì sự sống của tôi đang bị rút ngắn dần lại theo từng giây
phút tôi hít vào, thở ra. Nói cách khác, mỗi một giây phút tôi đang
sống đồng nghĩa với tôi đang chết dần theo từng giây. “Đang sống” như
vậy cũng có nghĩa là “đang chết”.
Vậy sự khác biệt về tư duy này có thể dẫn đến những hệ quả gì trong
cuộc sống? Giáo sư Nisbet và cộng sự tiến hành thử nghiệm sau. Họ cho
sinh viên Mỹ và Trung Quốc đọc một câu chuyện mô tả sự xung đột giữa
hai mẹ con trong một gia đình và một câu chuyện về sự xung đột giữa
những cảm xúc trái ngược nhau bên trong một cá nhân (tập trung vào
chuyện học hay chỉ muốn chơi) và yêu cầu các sinh viên phân tích những
xung đột này. Họ phân loại các câu trả lời của sinh viên thành 2 nhóm
sau. Nhóm 1 bao gồm những câu trả lời cho rằng xung đột bắt nguồn từ cả
hai phía, mỗi phía đều góp phần tạo ra xung đột hoặc tin rằng có thể
hòa giải hoặc chuyển hóa được sự đối kháng giữa học và chơi. Chẳng hạn
như câu sau sẽ thuộc nhóm 1: “cả hai người chẳng ai hiểu ai, vì vậy mới
có xung đột,” hay “người ta vẫn có thể vừa học tốt và vừa vui chơi.”
Ngược lại, những câu trả lời nhóm 2 đổ lỗi cho một trong hai người là
nguyên nhân gây ra xung đột hoặc cho rằng muốn học tốt thì không chơi,
và muốn vui chơi thì không học. Kết quả cuộc thử nghiệm cho thấy: trong
câu chuyện xung đột giữa hai mẹ con, 72% các câu trả lời của sinh viên
TQ thuộc nhóm 1, so với tỉ lệ 26% sinh viên Mỹ. Về sự đối kháng giữa
học-chơi, một nữa sinh viên TQ có câu trả lời thuộc nhóm 1, trong khi
đó chỉ có 12% sinh viên Mỹ có câu trả lời được xếp vào nhóm 1.
Nếu như những thử nghiệm trên của giáo sư Nisbet là đáng tin cậy, ta có
thể rút ra vài kết luận sơ khởi sau: tư duy của phương Tây là tư duy
kiểu “trắng đen phân biệt rõ rệt, không có vùng đất xám.” Có thể nói tư
duy kiểu này là tư duy đơn giản một chiều, khá cứng nhắc và có thể dẫn
đến những hành động cực đoan, vì nó không tìm cách dung hòa sự bất
đồng, không tìm con đường trung dung giữa hai phía để đi. Nó sẽ khăng
khăng cho rằng trách nhiệm thuộc về một phía và phía này phải sửa đổi
hành vi để cải thiện tình hình. Chính vì trong thực tế cuộc sống không
có nhiều tình huống “giấy trắng mực đen rõ ràng” như vậy nên tư duy
theo kiểu này không giúp làm cho xung đột khá hơn mà làm cho nó tồi tệ
đi, và khi mức chịu đựng giữa hai phía chạm đến giới hạn cuối cùng, bạo
động sẽ phát sinh.
Mặc dù giáo sư Nisbet tin rằng kiểu tư duy “biện chứng” của đông phương
như trên không phải là không có ở phương tây, bằng chứng là nó được thể
hiện qua tư tưởng của các triết gia như Hegel, Kant, Marx. Tuy nhiên
cuối cùng, Nisbet vẫn cho rằng tư duy của Đông và Tây là khác nhau và
người phương tây thường không ý thức được tư duy của họ bám chặt vào
các nguyên tắc lôgic đến mức nào, trái ngược với kiểu tư duy “biện
chứng” của phương Đông.
Trên
đây là phần tóm gọn lại những ý tưởng chính trong chương 7 của cuốn The
Geograhy of Thought: How Asians and Westerners Think Differently…and
Why, của tác giả Richard Nisbet trong đó tôi có dùng một số ví dụ và
cách diễn giải của riêng mình để minh hoạ làm rõ một số điểm của tác
giả.
Người viết: Hoàng Thạch Quân